Theo VSCS, ngành logistics Việt Nam
đang tăng trưởng nhanh nhưng vẫn chỉ đang ở giai đoạn đầu của phát
triển. Ngành này đang tăng trưởng với tốc độ 20%/năm, được dự kiến duy
trì tỷ lệ tăng trưởng cao trong vòng 2 thập kỷ tới nhờ được tăng trưởng
kinh tế dẫn dắt, tăng trưởng quy mô và tính hiện đại của các cơ sở sản
xuất và xuất khẩu, tính thâm nhập nhanh chóng của các tổ chức bán lẻ và
ngành thương mại điện tử đang phát triển mạnh.
Tại Việt Nam
có khoảng 1,000 công ty logistics, trong đó 25 là công ty nước ngoài,
một số đáng chú ý là Maersk Logistics, APL Logistics, NYK Logistics và
MOL Logistics. Song, phần lớn các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam là
các nhà cung cấp bên thứ hai (2PL), khác với các thị trường phát triển
hơn, chủ yếu thuộc về các nhà cung cấp bên thứ ba (3PL) và nhà cung cấp
dịch vụ quản lý chuỗi cung ứng khép kín.
Ngành
logistics Việt Nam vẫn khá kém hiệu quả khi hầu hết các công ty cung cấp
dịch vụ cơ bản như GT-VT và kho chứa, nhưng lại không có công ty cung
cấp các dịch vụ và giải pháp hê thống trọn gói. Do đó, chuỗi cung ứng đã
có sự tham gia của nhiều nhà cung ứng khác nhau theo từng giai đoạn,
dẫn đến sự kém hiệu quả ở mức độ hệ thống. Điều này, cùng với cơ sở hạ
tầng chưa phù hợp cũng như quy trình hải quan kéo dài đã khiến tỷ lệ chi
phí logistics trên GDP cả nước đạt gần 25%, cao hơn nhiều so với các
công ty cùng ngành trong khu vực. Khi các nhà cung cấp tiến dần sang
phương thức 3PL, tính hiệu quả logistics sẽ cải thiện thông qua thời
gian.


VCSC cho rằng
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang thúc đẩy cho nhu cầu của các dịch vụ
logistics. Theo đó, từ sau năm 2012, FDI vào Việt Nam tăng trưởng trên
9%/năm, đạt 12 tỷ USD trong năm 2014, trong đó khoảng 70% chảy vào khu
vực sản xuất. Vốn đầu tư, cụ thể vào lĩnh vực sản xuất đã dẫn dắt cho
nhu cầu trong nước về các dịch vụ vận chuyển và logistics quốc tế, chiếm
hơn 50% tổng vốn FDI lũy kết và 70% lượng vốn FDI mới trong năm 2014.
Kể từ năm 2007, công suất của các bến cảng container đã được mở rộng với
tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) 12.5%, đạt 8.1 triệu TEU trong năm 2013
(gấp đôi con số năm 2007). Được dẫn dắt bởi xuất khẩu từ các công ty sản
xuất nước ngoài và nhập khẩu hàng hóa trung gian, cũng như nguyên liệu
sản xuất, thương mại Việt Nam đã tăng trưởng nhanh trong năm 2014, với
tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu lần lượt là 14% và 12%.
Bên cạnh đóm
các hiệp định thương mại tự do lớn ký kết trong thời gian tới sẽ là động
lực thúc đẩy, qua đó duy trì nhu cầu đối với nhiều loại hình dịch vụ
logistics trong các năm tới, Việt Nam sẽ có điều kiện trở thành một
trung tâm sản xuất mới trong khu vực.
Đồng thời tận
dụng đà tăng trưởng mạnh của tiêu dùng trong nước, điển hình là lĩnh vực
tổ chức bán lẻ và trực tuyến, Việt Nam trở thành một trong những thị
trường bán lẻ tăng trưởng mạnh nhất trên thế giới. Điều này đã kích
thích nhu cầu dịch vụ kho vận, tạo ra nhu cầu về dịch vụ logistics
chuyên nghiệp, như quản lý chuỗi cung ứng lạnh (dành cho bán lẻ rau
quả). Việc giao hàng tận tay người mua cũng như quy trình thanh toán khi
mua hàng qua Internet phức tạp hiện đang kích thích nhu cầu về các dịch
vụ logistics chuyên nghiệp.
Bên cạnh đó,
VCSC cũng chỉ ra hiệu suất thấp là trở ngại chính trong ngành, làm giảm
định giá của các công ty… Thủ tục hải quan và quy trình pháp lý cầu kỳ
tại Việt Nam khiến chi phí logistics gia tăng, đồng thời nảy sinh chậm
trễ trong khâu vận chuyển hàng hóa xuyên biên giới. Cơ sở hạ tầng kém
phát triển tại Việt Nam làm vấn đề trở nên trẩm trọng hơn. Việc chiết
khấu do hiệu suất thấp được phản ánh vào P/E trung vị của các công ty
logistics niêm yết tại Việt Nam, chỉ đạt 7.4 lần, so với 15.1 lần tại
Philippines, 19.8 lần tại Ấn Độ và 23.1 lần tại Thái Lan.

Như vậy, khi
Việt Nam tiếp tục nhận dòng vốn FDI vào các lĩnh vực sản xuất công nghệ
cao như điện tử, đòi hỏi chuỗi cung ứng phức tạp, nhập khẩu nhiều thiết
bị linh kiện tinh xảo và xuất khẩu các sản phẩm giá trị cao, dễ hỏng
hóc. Điều này sẽ tạo áp lực để các doanh nghiệp kho vận hiện nay tiếp
tục nâng cấp phương tiện hoạt động. Việc đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng
đường bộ, đường sắt, cảng và sân bay sẽ cho phép các doanh nghiệp trong
nước cải thiện hiệu suất, qua đó tăng khả năng sinh lời.